Xem thêm video về tượng Địa Tạng bồ tát trên youtube:
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát. Là hai vị Bồ Tát có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong đời sống văn hóa của người Đông Phương. Người Đông Phương khi còn sống gặp khổ nạn thì cầu mẹ hiền Quán Âm cứu khổ. Khi mất rồi, thì trông cậy vào sự phổ độ của giáo chủ cõi U Minh Địa Tạng Từ Tôn. Con người ngoài sống và chết ra đâu có gì to lớn hơn cũng như đáng để lo hơn.
Tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được chế tác từ nhiều chất liệu khác nhau. Trong đó, tượng Bồ Tát Địa Tạng bằng bột đá rất được ưa chuộng. Bức tượng Bồ Tát Địa Tạng bằng bột đá thường được tạc theo hình tượng một vị Phật tay trái cầm Như Ý Châu, tay phải cầm tích trượng có sáu vòng tượng trưng cho lục đạo luân hồi có nghĩa muốn cứu độ hết mọi chúng sinh trên thế gian.
Ðịa Tạng Bồ Tát đích thực là ai? Ngài chính là Tôn Giả Ma Ha Mục Kiền Liên, nguyện ở trong địa ngục làm Bồ Tát. Vì sao Ngài muốn làm Bồ Tát ở địa ngục? Bởi vì Ngài thấu hiểu và cảm thông được mọi đau khổ mà thân mẫu Ngài đã chịu đựng.
Địa Tạng Vương Bồ Tát được tôn xưng giáo chủ cõi U minh – cõi giới tối tăm nhiều đau khổ. Dân gian tin tưởng Ngài là giáo chủ thống lĩnh cõi âm nên thường thờ Bồ Tát Địa Tạng trong nghĩa địa và các nhà thờ cúng những vong linh.
Hạnh nguyện Địa Tạng Bồ Tát
Ngoài hạnh nguyện cứu độ chúng sinh trong địa ngục, Bồ tát Địa Tạng còn tượng trưng cho bản tâm, tạng thức. Tâm như đất bao gồm nhiều tính chất như cứng chắc, sâu dày, rộng lớn, dung chứa hết thảy – Địa ngôn kiên hậu quảng hàm tàng. Tâm địa này hàm chứa hết thảy các pháp. Bồ tát Địa Tạng không chỉ cứu độ chúng sanh trong địa ngục mà gồm thâu nhiều công hạnh, nhất là hạnh cứu độ chúng sanh tâm (chủng tử xấu ác) làm hiển lộ bản tâm sáng suốt và thanh tịnh. Kính thờ tượng Bồ tát Địa Tạng chính là để học theo hạnh nguyện này của Ngài.
Ngài liên tưởng: “Nếu mẹ mình chịu khổ như vậy. Thì tất cả những bà mẹ trên cõi đời này cũng đều chịu khổ như thế”. Cho nên Ngài dùng tâm hiếu đạo bình đẳng, không phân biệt. Mà độ thoát tất cả chúng sanh trong địa ngục, khiến họ lìa khổ được vui.
Những ai nói rằng Thờ tượng Bồ Tát Địa Tạng thì có rất nhiều người ở cõi âm đi theo phá hại gia đình là thiếu cơ sở.
Những Phước báo khi kính thờ tượng Bồ Tát Địa Tạng
Những nguyện lớn mau chóng thành tựu;
Được trí huệ lớn;
Tiêu Trừ Tai Nạn;
Thoát Khỏi Hiểm Nguy;
Tiêu Trừ Tội Chướng và Bệnh Tật.
Bồ Tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta bà bằng nhiều hình tướng để hóa độ chúng sanh. Sở dĩ Ngài hiện thân, do bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sanh ra khỏi cảnh giới sanh tử.
Ngài qua hình ảnh thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm Tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu. Tay phải cầm Tích Trượng tượng trưng cho sức mạnh của Chánh Pháp.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Năng lực của Tích Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. Dùng chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người. Đầy tham lam, hận thù, đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức tỉnh kịp thời.
Còn tay trái Ngài nắm hạt minh châu là tượng trưng cho trí huệ. Vì muốn phá vô minh cần phải có trí huệ, một khi có trí huệ chiếu sáng thì vô minh không còn.
Bồ Tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh. Khiến cho chúng sanh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình.
Bồ Tát đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đề thính. Là con linh thú biết rõ tất cả sự vật trong trời đất. Biểu trưng cho Ngài là đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.
Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ Tát “Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát”. Hàng phật tử chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sanh vĩ đại của Ngài.
Chúng ta hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Có phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta bà thành Tịnh độ. Khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề.